"50 Năm Văn Học, Nghệ Thuật Việt Nam Sau Ngày Thống Nhất: Hành Trình Sáng Tạo Và Khẳng Định Bản Sắc"

50NămVănHọcNghệThuật #HànhTrìnhSángTạo #BảnSắcViệtNam #ThốngNhấtĐấtNước

👉 Khám phá dòng chảy văn hóa từ chiến tranh đến hòa bình, từ đổi mới đến hội nhập – hành trình đầy tự hào của dân tộc Việt Nam!

Kể từ ngày non sông Việt Nam liền một dải, ánh sáng của hòa bình đã xua tan màn khói lửa chiến tranh, mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong hành trình ấy, văn học nghệ thuật không chỉ là cánh chim báo hiệu của sáng tạo, mà còn là ngọn lửa giữ gìn ký ức, hun đúc bản lĩnh và soi đường cho khát vọng vươn lên của cả một dân tộc.

Nếu trong thời chiến, thơ ca, âm nhạc, hội họa là vũ khí tinh thần lay động lòng người, thì trong thời bình, những tác phẩm ấy lại hóa thành những viên gạch xây dựng đời sống tinh thần, khơi dậy ý chí đổi mới, thôi thúc sáng tạo và gìn giữ cốt cách Việt Nam.

50 năm qua, từ những ngày đầu đất nước bước ra khỏi chiến tranh với đầy gian khó, đến những năm tháng hội nhập, phát triển mạnh mẽ, văn học nghệ thuật đã luôn phản chiếu sinh động từng bước chuyển mình của xã hội Việt Nam.

Nhìn lại chặng đường nửa thế kỷ, chúng ta không chỉ thấy những cột mốc, những tên tuổi lớn, những tác phẩm sống mãi với thời gian… mà hơn hết, ta thấy được một dòng chảy sáng tạo không ngừng nghỉ – mang hơi thở của thời đại, chất liệu của đời sống và tinh thần bất khuất của con người Việt Nam.

50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất - một hành trình sáng tạo của dân tộc ảnh 1

Phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” của đạo diễn – Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Nhật Minh từng giành nhiều giải thưởng quốc tế. (Ảnh: TL)

Dòng chảy văn học nghệ thuật sau năm 1975 – từ chiến tranh đến hòa bình dựng xây

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ là dấu mốc kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, mà còn là thời điểm bắt đầu cho một hành trình mới – hành trình kiến tạo đất nước từ gian khó, bằng cả ý chí thép và khát vọng hồi sinh. Trong khoảnh khắc non sông thu về một mối, văn học nghệ thuật Việt Nam bước vào giai đoạn mới: từ nghệ thuật chiến đấu sang nghệ thuật kiến thiết, từ âm vang chiến thắng sang khúc ca của lao động, của tái thiết và đổi thay.

Ngay sau hòa bình lập lại, đất nước còn bộn bề những mất mát và hậu quả chiến tranh, nhưng chính trong hoàn cảnh đó, văn nghệ sĩ đã không ngơi nghỉ. Họ tiếp tục đi vào những vùng sâu, vùng xa, nơi đời sống còn khốn khó, vào những nhà máy, công trường, ruộng đồng để lắng nghe, để ghi chép, để viết nên những thiên anh hùng ca thời hậu chiến. Các tác phẩm văn học thời kỳ này, từ tiểu thuyết, ký sự đến thơ ca đều thấm đẫm tinh thần “hậu chiến tranh, nhưng không hậu hòa bình”, phản ánh sâu sắc một xã hội đang chuyển mình từ đổ nát đến hồi sinh, từ đau thương đến hy vọng.

Những tên tuổi nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng… với các tác phẩm như: Dấu chân người lính; Thời xa vắng; Rừng xà nu; Mảnh đất lắm người nhiều ma… đã trở thành những cột mốc văn chương thời kỳ đầu hậu chiến, lay động trái tim bao thế hệ độc giả Việt Nam.

Ở lĩnh vực âm nhạc, những ca khúc như Đất nước trọn niềm vui; Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh; Gửi em ở cuối sông Hồng… vang lên như những bản tình ca dành cho quê hương đang hồi sinh. Hội họa, điện ảnh, sân khấu… cũng không nằm ngoài dòng chảy ấy, mang theo mình sứ mệnh chạm đến những vết thương còn âm ỉ, để hàn gắn, để chữa lành bằng vẻ đẹp nghệ thuật.

Thập niên 80 của thế kỷ trước là giai đoạn đầy trăn trở, khi đất nước bước vào thời kỳ khó khăn chồng chất, và văn học nghệ thuật cũng không tránh khỏi va đập của thực tại. Tuy nhiên, chính trong thử thách ấy, một tinh thần phản tỉnh đã nhen nhóm – tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, dám đi vào những khoảng tối của đời sống để từ đó khơi dậy niềm tin và đạo lý. Nhiều tác phẩm gây tiếng vang, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thể hiện nỗ lực tự làm mới và hướng tới sự trưởng thành của nền văn học nghệ thuật sau chiến tranh.

Văn học nghệ thuật Việt Nam giai đoạn 1975-1985 vì thế vừa là tấm gương phản chiếu thực tại, vừa là ngọn lửa giữ gìn bản sắc và nuôi dưỡng khát vọng. Nó không đơn thuần là kể lại một giai đoạn đã qua, mà là sự tái hiện sống động của một tâm thế dân tộc: đi qua đổ nát với đôi bàn tay trắng nhưng trái tim ngời sáng hy vọng.

Bằng sự nhạy bén, chân thực và giàu cảm xúc, các nghệ sĩ đã để lại cho chúng ta một di sản quý báu, không chỉ là tác phẩm, mà còn là ký ức tập thể, là tâm thế dựng xây, là khúc ca đầu tiên của thời bình.

50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất - một hành trình sáng tạo của dân tộc ảnh 2

Vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nổi tiếng của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ do Nhà hát kịch Việt Nam dàn dựng trong những năm 80 của thế kỷ trước. (Ảnh: TL)

Đổi mới tư duy Cách mạng trong biểu đạt

Năm 1986, công cuộc Đổi mới không chỉ làm thay đổi cục diện kinh tế-xã hội của đất nước mà còn thổi một luồng gió mới vào đời sống tinh thần, đặc biệt là văn học và nghệ thuật. Đó không chỉ là sự thay đổi trong đề tài hay hình thức thể hiện, mà sâu xa hơn là một cuộc cách mạng trong tư duy sáng tạo – nơi người nghệ sĩ không còn chỉ là người minh họa cho hiện thực, mà trở thành người đối thoại với chính hiện thực ấy, bằng những chất liệu phong phú và tinh thần phản biện mang tính khai sáng.

Văn học bước ra khỏi những khuôn sáo, tiến tới khắc họa con người cá nhân với những phức cảm nội tâm, với đầy đủ những khuyết điểm, giằng xé, nghi ngờ, hoài nghi và cả những ánh sáng trong tâm hồn.

Văn học hậu Đổi mới trở nên sống động, đa thanh, dung chứa những mảnh ghép hiện thực thô ráp, nhưng chân thật, khơi gợi sự suy tư thay vì áp đặt chân lý. Những tác phẩm như Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)… đã đánh dấu một thời kỳ mà văn học dám đối diện với những khoảng tối, dám đào sâu vào ký ức, lịch sử, chiến tranh, những vết sẹo tinh thần vẫn còn đó để chữa lành, để đi tiếp.

Trong âm nhạc, bên cạnh dòng ca khúc chính luận truyền thống, xuất hiện một thế hệ nhạc sĩ mới như Trần Tiến, Phú Quang, Dương Thụ, Nguyễn Cường, những người mang đến sự phóng khoáng, cá nhân hóa và tính thể nghiệm cao trong sáng tác. Những bản tình ca, những giai điệu về thành phố, về nỗi cô đơn, về thân phận người Việt trong đời sống thường nhật… trở thành tiếng nói đồng hành với bao thế hệ thị dân trong giai đoạn đầy biến chuyển.

Sân khấu, điện ảnh cũng lần lượt cất lên tiếng nói đổi mới. Kịch nói bước sang những vấn đề gai góc, thẳng thắn. Những bộ phim như Bao giờ cho đến tháng Mười (Đặng Nhật Minh); Cánh đồng hoang (Hồng Sến); hay sau này là Thương nhớ đồng quê (Đặng Nhật Minh); Đời cát (Nguyễn Thanh Vân)… khơi dậy chiều sâu tâm lý và số phận, không né tránh hiện thực, mà từ chính hiện thực ấy, nâng tầm nghệ thuật.

Quan trọng hơn cả, đổi mới tư duy không dừng lại ở việc làm mới thể loại hay phá cách trong hình thức, mà là khơi dậy tinh thần tự do sáng tạo và đối thoại cởi mở giữa nghệ sĩ với thời đại, giữa tác phẩm với người tiếp nhận. Văn học nghệ thuật trở thành một phần của quá trình dân chủ hóa đời sống tinh thần, thúc đẩy xã hội nhìn lại, suy tư và vượt qua những ràng buộc cũ để bước tới những giá trị nhân văn và sâu sắc hơn.

Đây chính là giai đoạn mà lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” một lần nữa được khơi dậy bằng hành động cụ thể: soi đường bằng dũng cảm khai phá cái mới, và bằng khát vọng không ngừng hoàn thiện con người Việt Nam trong xã hội mới.

Cuộc đổi mới ấy không chỉ làm thay đổi diện mạo nghệ thuật, mà còn làm giàu thêm bản sắc tinh thần của dân tộc, mở ra hành lang sáng tạo rộng lớn, nơi mỗi nghệ sĩ được là chính mình, và mỗi tác phẩm trở thành cuộc gặp gỡ chân thành với đời sống, với tâm hồn đồng bào, đồng loại.

Hội nhập và khẳng định bản sắc

Khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc hội nhập quốc tế từ những năm 1990 đến nay, văn học nghệ thuật Việt Nam cũng bước vào một giai đoạn mới: mở cửa, đối thoại, tiếp thu tinh hoa nhân loại, đồng thời nỗ lực khẳng định bản sắc riêng trong lòng thế giới đang ngày càng phẳng hơn.

Thế giới mở ra, những làn sóng sáng tạo từ phương Tây, từ các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… tràn vào đời sống văn hóa Việt Nam. Văn nghệ sĩ không còn bị giới hạn bởi biên giới địa lý hay rào cản thông tin.

Các thể loại mới xuất hiện, tư duy sáng tạo mới được khích lệ, và cách nhìn về con người, xã hội, nghệ thuật cũng trở nên đa chiều, hiện đại và toàn cầu hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là trong quá trình ấy, Việt Nam đã không để mình bị “hòa tan”, mà lựa chọn tiếp biến – tiếp nhận cái mới để làm giàu cái gốc, chứ không đánh mất mình.

Nhiều tác phẩm văn học đương đại đã gây tiếng vang trong nước và quốc tế với chất liệu thuần Việt, nhưng giọng điệu hiện đại, tiêu biểu như Nguyễn Nhật Ánh với những câu chuyện thiếu nhi nhẹ nhàng mà sâu sắc, và gần đây là những cây bút trẻ như Nguyễn Phan Quế Mai với The Mountains Sing, được dịch và đón nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia. Những tác phẩm này cho thấy sức sống nội tại của văn học Việt Nam – vừa dung dị, vừa dữ dội, vừa giàu triết lý nhân văn.

Điện ảnh Việt Nam cũng từng bước bước ra thế giới với những bộ phim đoạt giải tại các liên hoan phim quốc tế như: Mùa len trâu (Nguyễn Võ Nghiêm Minh); Bi, đừng sợ! (Phan Đăng Di); Ròm (Trần Thanh Huy); Tro tàn rực rỡ (Bùi Thạc Chuyên)… Những bộ phim này không chạy theo thị hiếu quốc tế một cách rập khuôn, mà thể hiện góc nhìn riêng của người Việt Nam về đời sống Việt Nam, từ đó chạm đến sự đồng cảm toàn cầu bằng những giá trị phổ quát: gia đình, tuổi thơ, thân phận, khát vọng sống…

Âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu và các loại hình nghệ thuật đương đại cũng không ngừng vươn ra thế giới. Các nghệ sĩ như Tùng Dương, Hà Myo, Hoàng Thùy Linh, Hòa Minzy, Ngô Hồng Quang, nhóm xẩm Hà Thành, các dự án kết hợp nhạc dân tộc với nhạc điện tử, hay nghệ thuật trình diễn đường phố ở Hội An, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh… đều cho thấy sự sống động và đa dạng của văn hóa Việt Nam đang chuyển mình để vừa giữ lại cái “ta”, vừa mở ra cái “chung”.

Đặc biệt, việc Hà Nội gia nhập Mạng lưới các Thành phố Sáng tạo của UNESCO năm 2019 và sau đó là Hội An, Đà Lạt là một dấu mốc quan trọng cho thấy sự ghi nhận của thế giới với tiềm năng sáng tạo, bản sắc và cam kết phát triển bền vững của Việt Nam trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.

Trong dòng chảy hội nhập ấy, vai trò của Nhà nước trong định hướng, hỗ trợ thể chế, tạo không gian phát triển cũng ngày càng rõ nét. Những chính sách về phát triển công nghiệp văn hóa, sáng tạo nội dung số, bảo tồn và phát huy di sản phi vật thể trong bối cảnh toàn cầu hóa… đang từng bước đặt văn hóa vào đúng vị trí, là sức mạnh mềm, là trụ cột của phát triển bền vững như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội.

Và cũng chính trong bối cảnh toàn cầu hóa hôm nay, hơn bao giờ hết, bản sắc văn hóa dân tộc với vốn quý từ ca dao, hò vè, nhạc cung đình, hát xẩm, chèo, tuồng, múa rối, kiến trúc truyền thống, các làng nghề… không phải là thứ để bảo tàng hóa, mà là chất liệu sống, nguồn lực sáng tạo và là “mã nhận diện” Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.

Hội nhập không làm nhòa đi bản sắc, mà là cơ hội để bản sắc được tôi luyện, thăng hoa và khẳng định. Và chính điều đó khiến hành trình văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm qua trở thành một minh chứng sống động cho khả năng thích ứng, bứt phá và giữ vững hồn cốt trong mọi thời đoạn lịch sử.

50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất - một hành trình sáng tạo của dân tộc ảnh 3
“Bắc Bling” của nữ ca sĩ Hòa Minzy đã trở thành hiện tượng của năm 2025. (Ảnh: ND)

Văn hóa nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh của phát triển bền vững

Trải suốt hành trình nửa thế kỷ sau ngày thống nhất đất nước, văn học nghệ thuật Việt Nam không chỉ là minh chứng cho sự hồi sinh của tinh thần dân tộc, mà còn khẳng định một chân lý sâu sắc: Văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là nguồn lực nội sinh cốt lõi để phát triển bền vững đất nước trong mọi thời đại.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Văn hóa còn thì dân tộc còn. Đây không chỉ là một nhận định mang tính triết lý, mà còn là kim chỉ nam cho mọi đường lối phát triển. Trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu, nơi công nghệ và kinh tế số chi phối mọi mặt đời sống, chính văn hóa với các biểu hiện sống động nhất là văn học và nghệ thuật, trở thành trụ cột để bảo vệ căn tính, nuôi dưỡng bản lĩnh, dẫn dắt tư duy và truyền cảm hứng phát triển.

Nhìn từ thực tiễn, không một quốc gia phát triển bền vững nào mà thiếu đi sự đồng hành của một nền văn hóa mạnh mẽ. Như Nhật Bản với tinh thần “Wabi-sabi”, Hàn Quốc với làn sóng Hallyu, hay Pháp với di sản văn học-nghệ thuật đồ sộ, tất cả đều chứng minh: Văn hóa không chỉ là sức mạnh mềm, mà còn là một nguồn lực chiến lược để phát triển kinh tế-xã hội. Việt Nam, với bề dày văn hiến và bản sắc đặc hữu, có đầy đủ điều kiện để khẳng định vị thế văn hóa của mình nếu biết khơi dậy, gìn giữ và phát huy một cách đúng hướng.

Văn học và nghệ thuật là nơi khởi nguồn và lan tỏa các giá trị cốt lõi ấy. Một tác phẩm văn học có thể thức tỉnh nhận thức xã hội. Một bản nhạc, một vở kịch, một bức tranh có thể làm thay đổi cách nhìn về cộng đồng, lịch sử, con người. Trong các vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện vật chất còn khó khăn, văn hóa vẫn luôn là nơi bám víu của đời sống tinh thần. Ở đô thị hiện đại, văn hóa giúp con người tìm lại sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lợi ích vật chất và giá trị tinh thần.

Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển văn hóa-nghệ thuật không thể tách rời khỏi chiến lược phát triển quốc gia. Đó là lý do tại sao Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chiến lược lớn như Nghị quyết 33-NQ/TW về phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, trong đó khẳng định vai trò kinh tế của sáng tạo, vai trò xã hội của nghệ thuật, và vai trò bản sắc của văn hóa dân tộc.

Nhiều địa phương đã bắt đầu coi văn hóa là nguồn lực phát triển: từ việc quy hoạch không gian sáng tạo, bảo tồn và khai thác di sản, đến phát triển các sản phẩm văn hóa đặc thù, xây dựng lễ hội, phim ảnh, nhạc kịch, du lịch trải nghiệm… Đó không chỉ là làm văn hóa vì văn hóa, mà là chuyển hóa văn hóa thành động lực phát triển, thành thế mạnh cạnh tranh, thành chất keo gắn kết xã hội trong thời đại phân mảnh.

Và để làm được điều đó, cần một hệ sinh thái đồng bộ: từ thể chế pháp luật phù hợp, nguồn lực đầu tư đủ mạnh, cơ chế khuyến khích sáng tạo, đến việc nuôi dưỡng một thế hệ công chúng yêu nghệ thuật, biết thưởng thức và bảo vệ các giá trị nhân văn. Bởi văn học nghệ thuật không thể phát triển trong môi trường phi tự do, thiếu khuyến khích, và bị lãng quên bởi người đọc, người xem, người nghe.

Nửa thế kỷ đã qua, chúng ta có thể tự hào vì một nền văn học, nghệ thuật từng bước trưởng thành, phản ánh sâu sắc bản chất xã hội, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và góp phần hình thành hệ giá trị Việt Nam hiện đại. Nhưng phía trước, là một tương lai đang mở rộng, nơi văn hóa cần phải là “cánh chim đầu đàn” cho khát vọng phát triển, không chỉ bền vững mà còn thịnh vượng và nhân văn.

Viết tiếp khúc tráng ca

Năm 2025 – năm của những cột mốc: 50 năm thống nhất đất nước, 80 năm thành lập nước, và cũng là năm cả dân tộc đang hối hả bước vào một giai đoạn phát triển mới, với khát vọng vươn mình trên bản đồ thế giới. Trong thời khắc thiêng liêng ấy, nhìn lại chặng đường 50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam không phải để hoài niệm quá khứ, mà là để khơi nguồn cho tương lai – tương lai của sáng tạo, bản sắc, và khẳng định mình giữa toàn cầu hóa.

Chúng ta đã có một hành trình đầy tự hào: từ khói lửa chiến tranh đến những trang viết hậu chiến lay động lòng người; từ bước chuyển tư duy Đổi mới đầy quả cảm đến hành trình hội nhập sâu rộng với thế giới văn minh. Từng tác phẩm, từng con người, từng nỗ lực âm thầm đã góp phần viết nên bản anh hùng ca tinh thần – một khúc tráng ca mang tên văn học nghệ thuật Việt Nam.

Nhưng khúc tráng ca ấy chưa kết thúc. Bởi hành trình của văn hóa không bao giờ dừng lại. Mỗi thế hệ nghệ sĩ hôm nay và mai sau cần tiếp tục cầm lấy ngọn đuốc sáng tạo, không chỉ để thắp sáng bản thân, mà còn để soi đường cho cộng đồng, cho quốc gia trên hành trình phát triển toàn diện và bền vững. Họ cần giữ vững bản lĩnh trước những xáo động của thị trường, trước cám dỗ của sự dễ dãi, và hơn hết, trước sức ép hòa tan bản sắc trong trào lưu toàn cầu.

Khát vọng xây dựng một nền công nghiệp văn hóa hiện đại, khẳng định “quyền lực mềm” Việt Nam trên bản đồ thế giới sẽ không thành hiện thực nếu thiếu những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, đạo diễn, nghệ sĩ… biết viết bằng trái tim, sáng tác bằng tâm huyết, và sống bằng lý tưởng phụng sự dân tộc. Những con người ấy, trong thầm lặng, đang kết nối thời đại với truyền thống, hiện tại với quá khứ, cá nhân với cộng đồng để mỗi tác phẩm không chỉ là kết tinh của tài năng, mà còn là di sản tinh thần gửi đến tương lai.

Trong một thế giới đang biến đổi nhanh chóng, khi công nghệ có thể tạo ra hàng triệu nội dung trong nháy mắt, thì điều con người cần hơn bao giờ hết chính là chất người trong nghệ thuật, sự tử tế, sâu sắc, chân thành và giàu bản sắc. Đó chính là vai trò không thể thay thế của văn học, nghệ thuật, của văn hóa Việt Nam: giữ hồn dân tộc, nâng tầm con người, và truyền cảm hứng sống có ý nghĩa.

Chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn của những giấc mơ lớn và hành động mạnh mẽ. Và trong hành trình ấy, không gì quý giá hơn khi văn học nghệ thuật tiếp tục là ngọn lửa thắp lên lòng yêu nước, niềm tin vào cái đẹp, khát vọng vươn lên và tình người sâu thẳm.

Hãy cùng nhau, trong trách nhiệm của mỗi người Việt hôm nay, viết tiếp khúc tráng ca văn hóa của dân tộc bằng hành động cụ thể, bằng sự nâng niu từng giá trị văn chương, từng nét nhạc, từng thước phim, từng tác phẩm nghệ thuật như gìn giữ chính linh hồn Việt Nam trong bước chuyển mình của thời đại.


Khám phá thêm từ Rao vặt giá tốt

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.

Gửi phản hồi

[analytify-views]
💥 Không tìm thấy hàm Analytify!

Khám phá thêm từ Rao vặt giá tốt

Đăng ký ngay để tiếp tục đọc và truy cập kho lưu trữ đầy đủ.

Tiếp tục đọc